Nhà tôi nằm ở ngã ba sông. Bạn có thể nghĩ thật kỳ lạ khi một ngôi nhà đột nhiên xuất hiện giữa sông, nhưng đó đã là chuyện của hai mươi năm trước. Thực chất đây chỉ là nhánh sông cụt sâu chưa tới 2m. Ngày bố đi hỏi cưới mẹ, ông ngoại chỉ tay ra ngã ba sông, thách thức: Mày dựng được căn nhà hỏi vợ ngay ngã ba sông này, tao gả liền.

Ông ngoại tôi, hay bất kỳ một ông cụ nào khác trong làng này, dĩ nhiên không hề muốn gả con gái cho bố tôi, một tay khét tiếng cờ bạc đã ăn trong máu, nhà cửa chẳng có. Lời thách ấy, thực chất là lời từ chối của ngoại. Lời thách không tưởng ấy ai dè là động lực cho bố. Ông chọn ngay thời điểm mùa sông cạn nước nhất để đóng cọc, đổ đất, đắp đập, be bờ. Hàng chục thanh niên trai tráng trong làng, nhiều người không thân quen, nhưng khi biết chuyện vẫn nhiệt tình đánh trần giúp bố đắp đất xây nhà.

Bố tôi cưới được vợ, người con gái có tiếng đảm đang, ngoan ngoãn, cũng vì thế. Ngày con gái đi lấy chồng, mặt ông ngoại tôi buồn thiu. Dù là nông dân cả đời lam lũ, nhưng ông vẫn luôn nói: Quân tử nhất ngôn thì nông dân cũng nhất ngôn.

Ông chỉ yên tâm hơn một tẹo khi bố tôi lầm rầm khấn trước bàn thờ tổ tiên lời thề chẳng giống ai: “Con xin thề sẽ bỏ cờ bạc, chí thú làm ăn để lo cho gia đình”. Trong suy nghĩ của mấy anh em chúng tôi, bố là người quyết đoán. Quyết đoán đến mức nhiều khi tưởng như khắc nghiệt. Đó là lý do anh em tôi ra trường, lập nghiệp ở Sài Gòn, bố ở Bình Dương, chỉ cách chưa tới 20km, nhưng chỉ những ngày lễ, tết mới về nhà.

Có lần, trước giao thừa vài tiếng, mấy anh bạn công nhân quanh nhà rủ đánh bạc thử vận đỏ đen. Tôi gặp vận đỏ, thắng hơn năm triệu đồng. Về đến nhà, nhìn vẻ mặt tươi rói của tôi, ông già rót nước trà gọi lại uống và nói chuyện.

– Con vừa đi đâu về vậy Linh?
– Con đi chơi.
– Chơi đâu?

Tôi lúng túng thực sự. Kể từ khi lấy vợ, bố tôi đã thề đoạn tuyệt và chưa bao giờ ủng hộ trò đỏ đen. Nhưng với tôi, đó chỉ là trò chơi may rủi. Ở khu trọ toàn công nhân nhập cư này, mỗi mùa lễ tết phải có tới 3/4 thanh niên trai tráng trong số đó ở lại “vui vầy” trên chiếu. Bố ngay lập tức nắm bắt được suy nghĩ của tôi. Ông nhìn với ánh mắt dò xét:

– Con thắng hay thua?
– Dĩ nhiên con thắng. Nhiều lắm bố, hơn năm triệu bạc. Bất ngờ, ông vung cánh tay săn chắc, đen bóng, bổ mạnh xuống mặt bàn:
– Đặt lên đây!
Tôi lúi húi đặt lên.

– Mày nghĩ sao vậy con? Hầu hết những thằng ngồi chung chiếu bạc với mày hôm nay, chúng nó là công nhân tỉnh lẻ, không có tiền, có được ít tiền công tiền thưởng chỉ đủ gửi về cho mẹ cho vợ, cạn kiệt không còn cả tiền tàu xe để về. Chúng nó muốn bỏ con tép bắt con tôm, có thêm chút đỉnh để có mấy ngày tết xôm tụ hơn một chút. Thế mà mày ăn hết tiền của tụi nó với vẻ mặt hớn hở thế kia? Khốn nạn!

Tôi nóng mặt khi nghe ông dằn hai từ chửi nặng nề ấy. Lần đầu tiên tôi thấy các cơ trên khuôn mặt ông rần rật rung lên, xô lại vì giận dữ. Bây giờ bố muốn sao?

– Đồ ngu. Ra quán trả ngay tiền cho tụi nó.
– Mọi người về hết rồi.
– Vậy mày gõ cửa từng nhà trọ mà trả.

Giao thừa năm ấy, tôi như một thằng ngu (cũng có thể có người coi là đạo đức, nhưng tôi vẫn nghĩ người ta nhìn mình giống thằng ngu hơn) khi đi khắp khu trọ, gõ cửa những người thua bạc để trả tiền cho họ. Trong lòng tôi lúc ấy tràn ngập sự cay cú với bố. Tôi chấp nhận đi không phải vì phục lời bố mà vì ánh mắt má tôi lúc đó như van nài, như cầu xin.

Cũng từ đó, chẳng thề nguyền với ai, nhưng tôi không bao giờ ngồi lại chiếu bạc. Tôi nhớ như in đêm bố mươi thắng đậm ở quê và mất sạch hứng thú đỏ đen. Mùa hè năm ấy, bố tôi trở bệnh. Căn bệnh ung thư phổi khiến ông xuống sức nhanh chóng. Những năm cuối cùng, ông trồng quanh vườn nhà từng gốc măng cụt, sầu riêng, trước nhà là một dãy dài xoài, bưởi. Hàng xóm thắc mắc, ông cười rất hiền:

Tui trồng cho tụi cháu tui ăn, lũ trẻ trong xóm ăn. Cháu ông đâu?. Thằng Linh sắp ra trường rồi, lại cả mấy thằng em nó nữa. Mai mốt thể nào chả con đàn cháu đống. Chưa chắc tui gặp hết cháu chắt tui, nhưng chắc chắn tụi nó sẽ được ăn những trái cây tui trồng.

Ngày bố vào bệnh viện, nằm chung phòng cấp cứu với bố có khá nhiều cụ ông, cụ bà sàn sàn cùng tuổi. Trong khi nhiều ông bà hay dành một thời gian đáng kể trong ngày ra để ngồi thở dài, ngẫm nghĩ về cái chết, thì bố vẫn thường lạc quan tếu: “Cái chết có gì đâu, lúc nào tới số, trên gọi thì mình đi thôi”.

Được vài hôm, lần đầu ông tỏ ra ưu tư khiến chúng tôi nhầm tưởng ông bắt đầu giống các cụ kia, sợ cái chết đang gần kề… Bố gọi tôi ra góc sân bệnh viện. Bàn tay gầy guộc, đen sạm của ông nắm tay tôi:
– Linh, con thấy cụ già cuối phòng cấp cứu không?
– Dạ có.

Ông cụ ấy, là một nghệ nhân mộc. Bố tôi chầm chậm kể. Nhà cụ cũng có bốn đứa con trai như bố. Nhưng khác với bố, lũ con ấy, mỗi đứa một phương, coi bố mẹ như người thừa trong xã hội. Hoặc có khi, chúng coi bố mẹ không còn có mặt trên đời từ lâu rồi. Cụ nằm viện gần hai tháng, nhưng chưa bao giờ thấy một đứa con nào vác mặt thăm nom.

Sáng nay, bác sĩ nói nếu không có giác mạc hay cái gì mạc ấy, sẽ không thể cứu được đôi mắt ông cụ ấy nữa. Mà nghề mộc của ông cụ, mai mốt ra viện nếu không có đôi mắt thì chắc chẳng làm được gì.
Bố tôi lặng đi một lúc.

– Linh, bố tính thế này được không? Mày lên gặp giám đốc bệnh viện, hỏi xin cho bố tờ đơn xin hiến giác mạc hay cái mạc mạc gì đó, để cứu được đôi mắt ông cụ. Mai mốt tao chết cũng chẳng cần đôi mắt mang theo làm gì.

Bố tôi rành rẽ, dù ông nói “bố tính” như dò ý tôi, nhưng kỳ thực, giọng ông vang vang nói như ra lệnh. Tôi muốn nói với bố rằng, bố ơi, chi mà cực vậy, ruột gan phèo phổi bố đã không lành rồi, còn đôi mắt lành, chân tay lành…, chí ít có được hình hài lành lặn cũng cần giữ lấy để còn đi gặp ông bà chứ. Nhưng họng tôi nghẹn đắng, không cất tiếng nổi.

Mà cần gì tôi nói, mắt bố tôi long lanh nhìn trực diện như thấu tim gan tôi. Ông lắc lắc cánh tay tôi: Nha con, giúp bố, nếu không có khi không kịp. Như có linh tính, ngay sau khi tôi vừa hoàn tất thủ tục theo ý nguyện cuối cùng của bố thì bệnh viện trả bố về cho gia đình. Trước khi rời bệnh viện, bố tôi vẫn nhìn về phía những người bạn già với một ánh mắt nhẹ nhõm niềm vui.

Ngày chúng tôi đưa bố về lại căn nhà cũ, mảnh vườn cũ mà bố đã vắng bóng gần nửa năm nay, lứa ổi đầu tiên vừa chín tới. Bố khẽ à lên một tiếng, nói với tôi: Con nhớ hái ổi cho lũ trẻ trong xóm, để rụng phí quá. Vài ngày sau bố ra đi rất đỗi nhẹ nhàng.

Thú thực, trước khi bố mất, tôi chưa từng nghĩ tới chuyện có thế giới bên kia hay không. Nhưng sau đó, mỗi khi thắp nhang lên bàn thờ, tôi vẫn dọn hai đĩa trái cây, một đĩa nhỏ cúng bố, một đĩa lớn hơn để ông mời những người khác, nhất là những đứa nhỏ xung quanh.

Bởi tôi biết, ông chưa bao giờ ăn miếng ngon một mình. Và ngoài khu vườn bố tôi nâng niu từng mầm cây mà ông không đợi ngày ăn trái, tôi luôn thấy bóng ông đi về trong tiếng chim hót, lá reo…

Theo intenet