Ngày 19/02/2022, Báo Lao động, Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam và Ngân hàng Quân đội (MB) phối hợp tổ chức Hội thảo “Cần Luật hoá Nghị quyết số 42/2017/QH14 để giải bài toán xử lý nợ xấu ngân hàng”. Tại Hội thảo, ý kiến các chuyên gia nhấn mạnh đến tính cấp bách của việc luật hóa Nghị quyết số 42/2017/QH14, ban hành Luật Xử lý nợ xấu, giúp khơi thông nguồn vốn phục vụ cho việc phục hồi và phát triển kinh tế.

Nghị quyết số 42/2017/QH14 giúp xử lý hiệu quả nợ xấu
Dịch bệnh Covid-19 bùng phát mạnh trong 2 năm qua dẫn đến khả năng trả nợ của khách hàng vay suy giảm, nợ xấu của các tổ chức tín dụng có khả năng tiếp tục tăng mạnh trong thời gian tới. Trong 5 năm qua, ngành ngân hàng đã xử lý nợ xấu theo Đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020 và Nghị quyết số 42/2017/QH14/2017 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu.
Theo ông Nguyễn Quốc Hùng, Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng cho rằng Nghị quyết số 42/2017/QH14 đã tháo gỡ nhiều vướng mắc cho các tổ chức tín dụng trong quá trình xử lý nợ xấu, đó là cho phép tổ chức tín dụng được quyền thu giữ tài sản bảo đảm; tổ chức tín dụng mua bán nợ xấu và tài sản bảo đảm theo giá thị trường; cho phép Tòa án áp dụng thủ tục rút gọn để giải quyết tranh chấp liên quan đến tài sản bảo đảm; qui định về phương thức xử lý nợ xấu trong trường hợp tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất, bất động sản bị kê biên; quy định thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm; qui định nghĩa vụ thuế, phí khi chuyển nhượng tài sản bảo đảm…

Tính đến cuối năm 2021, toàn hệ thống các tổ chức tín dụng đã xử lý được trên 1.300 nghìn tỷ đồng nợ xấu. Trong đó, giai đoạn 2012-2015 xử lý được 493,1 nghìn tỷ đồng; giai đoạn 2016-2021 xử lý được trên 800 nghìn tỷ đồng. Tổng nợ xấu xác định theo Nghị quyết số 42 của toàn hệ thống các tổ chức tín dụng đã xử lý được khoảng 368,9 nghìn tỷ đồng (không bao gồm nợ xấu xử lý bằng sử dụng dự phòng rủi ro).
Số nợ xấu xác định theo Nghị quyết số 42 được xử lý thu hồi trong giai đoạn từ ngày 15/8/2017 đến cuối năm 2021, đạt trung bình khoảng 6,92 nghìn tỷ đồng/tháng, cao hơn 3,94 nghìn tỷ đồng/tháng so với giai đoạn trước khi có Nghị quyết số 42 (giai đoạn năm 2012 - 2017). Tỷ lệ nợ xấu nội bảng của hệ thống tổ chức tín dụng trong giai đoạn 2016-2021 được duy trì dưới mức 3%.
Tuy nhiên, đến ngày 15/8/2022, Nghị quyết này sẽ hết hiệu lực thi hành. Trong bối cảnh đại dịch Covid-19 bùng phát, và đặc biệt là làn sóng thứ 4 với biến chủng Delta trong năm 2021 đã gây ra tổn thất nặng nề đối với các hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, sinh kế và đời sống của người dân, nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng gia tăng là điều đã được dự báo trước.
Chia sẻ về thực trạng nợ xấu, TS.Cấn Văn Lực, Chuyên gia kinh tế trưởng của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) cho hay, theo số liệu từ Ngân hàng Nhà nước, cuối năm 2021 tỷ lệ nợ xấu nội bảng là 1,9% (tăng 0,21 điểm % so với cuối năm 2020), nếu tính thêm nợ bán cho VAMC thì con số này là 3,9%. Tỷ lệ nợ xấu gộp (bao gồm nợ xấu nội bảng, nợ xấu bán cho VAMC chưa được xử lý và nợ xấu tiềm ẩn từ các khoản cơ cấu lại) tăng mạnh lên mức 7,31% cuối năm 2021 từ mức 5,1% cuối năm 2020 và gần tương đương với con số cuối năm 2017 (7,4%) - cũng là năm mà Nghị quyết số 42/2017/QH14 bắt đầu có hiệu lực.
Do đó, cần tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong khuôn khổ pháp lý liên quan đến xử lý nợ xấu để khơi thông được nguồn vốn của hệ thống ngân hàng, qua đó đảm bảo độ an toàn, lành mạnh của hệ thống ngân hàng và tăng trưởng GDP của nền kinh tế.

Những vướng mắc nảy sinh từ thực tiễn
Ông Nguyễn Quốc Hùng cho biết, dù Nghị quyết số 42/2017/QH14 góp phần xử lý hiệu quả nợ xấu, thu hồi vốn cho các tổ chức tín dụng nhưng thực tiễn triển khai còn nhiều khó khăn, vướng mắc.
Thứ nhất là, vướng mắc trong thu giữ tài sản bảo đảm. Việc thu giữ hạn chế, gặp nhiều vướng mắc do phần lớn các Hợp đồng bảo đảm cũ chưa có nội dung đáp ứng điều kiện tại điểm b khoản 2 Điều 7 Nghị quyết số 42/2017/QH14, theo đó Hợp đồng bảo đảm phải có thỏa thuận việc Bên bảo đảm đồng ý cho các tổ chức tín dụng có quyền thu giữ tài sản bảo đảm. Do đó, phần lớn không triển khai được việc thu giữ. Bên cạnh đó cũng chưa có quy định cụ thể trong việc xử lý đối với từng loại tài sản bảo đảm (động sản và bất động sản), các tài sản đặc thù, những trường hợp đặc biệt.
Thứ hai là, vướng mắc trong áp dụng thủ tục rút gọn. Ông Hùng chỉ ra rằng trên thực tiễn, hầu như chưa có tổ chức tín dụng nào áp dụng thành công thủ tục rút gọn trong giải quyết tranh chấp theo Nghị quyết số 42/2017/QH14. Nguyên nhân chính là Khoản 1 Điều 8 Nghị quyết số 42/2017/QH14 chỉ áp dụng đối với tranh chấp về nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm, tranh chấp về quyền xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu của tổ chức tín dụng mà chưa quy định rõ việc áp dụng thủ tục rút gọn đối với các tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa các tổ chức tín dụng với khách hàng vay. Do đó, chưa tạo được cơ sở pháp lý cho Tòa án áp dụng thủ tục rút gọn rộng rãi khi tổ chức tín dụng khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp Hợp đồng tín dụng.
Thứ ba là, vướng mắc trong việc xác định thứ tự ưu tiên thanh toán từ tiền bán/phát mại tài sản bảo đảm. Liên quan đến nộp thuế thu nhập phát sinh từ việc xử lý tài sản bảo đảm, Bộ Tài chính có Công văn số 5477/BTC-TCT ngày 14/5/2019 gửi Ngân hàng nhà nước về việc thu thuế theo Nghị quyết số 42/2017/QH14; Tổng cục thuế có công văn số 1988/TCT-DNL ngày 20/5/2019; Liên quan đến thu án phí, Tổng cục Thi hành án dân sự có công văn số 2004/TCTHADS-NV1 ngày 3/7/2019 hướng dẫn theo hướng trên cơ sở quy định tại Điều 12 Nghị quyết số 42/2017/QH14 về chi phí xử lý tài sản bảo đảm và thứ tự thanh toán án phí tại Điều 47 Luật thi hành án dân sự. Theo hướng dẫn của các Bộ/Ngành liên quan như trên, trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ xấu của các tổ chức tín dụng theo quy định tại Nghị quyết số 42/2017/QH14, tiền thu được từ việc xử lý tài sản bảo đảm sau khi trừ chi phí bảo quản, thu giữ và chi phí xử lý tài sản bảo đảm chưa được ưu tiên thanh toán để thu hồi nợ xấu của các tổ chức tín dụng theo như quy định tại Điều 12 Nghị quyết số 42/2017/QH14. Dẫn đến cơ chế ưu tiên thu hồi nợ xấu của các tổ chức tín dụng từ số tiền xử lý tài sản bảo đảm theo Nghị quyết số 42/2017/QH14 không được bảo đảm thực thi trên thực tế bởi sự thiếu đồng bộ, chưa nhất quán giữa quy định tại Nghị quyết số 42/2017/QH14 với quy định của pháp luật về thuế và pháp luật về thi hành án dân sự.
Thứ tư là, khó khăn về nhận lại tài sản bảo đảm là vật chứng trong vụ án hình sự. Điều 14 Nghị quyết số 42/2017/QH14 quy định: “Sau khi hoàn tất thủ tục xác định chứng cứ và xét thấy không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án và thi hành án, cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm hoàn trả vật chứng trong vụ án hình sự là tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu theo đề nghị của bên nhận bảo đảm là tổ chức tín dụng…”. Tuy nhiên, hiện nay chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào giải thích và lượng hóa các tiêu chuẩn, điều kiện cụ thể về việc “ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án và thi hành án”.
Thứ năm là, vướng mắc trong nguyên tắc áp dụng pháp luật về xử lý nợ xấu, xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu. Theo ông Hùng, trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết số 42/2017/QH14, một số cơ quan có thẩm quyền đã ban hành văn bản hướng dẫn các cơ quan cấp dưới hoặc áp dụng trong nội bộ ngành mình có nội dung tiếp tục duy trì việc áp dụng các Luật chuyên ngành như trước khi Nghị quyết số 42/2017/QH14 có hiệu lực. Điều này dẫn đến mục tiêu ban hành các chính sách hỗ trợ để đẩy nhanh tiến độ xử lý, thu hồi nợ xấu theo tinh thần Nghị quyết số 42/2017/QH14 không đạt được toàn diện, một số chính sách hỗ trợ hoạt động xử lý nợ xấu trong Nghị quyết số 42/2017/QH14 chưa đi vào thực tiễn.
Chia sẻ thực tiễn triển khai Nghị quyết số 42/2017/QH14, ông Phan Thanh Hải, Phó Tổng Giám đốc Ngân hàng Đầu tư và Phát triển (BIDV) nêu một số khó khăn trong quá trình xử lý nợ xấu và vướng mắc trong thực hiện Nghị quyết số 42/2017/QH14, như dịch bệnh Covid-19 bùng phát trong khoảng 2 năm trở lại đây đã ảnh hưởng, tác động tiêu cực đến hoạt động xử lý thu hồi nợ của các ngân hàng. Ngân hàng còn khó khăn trong công tác thi hành án. Đối với các khoản nợ có nhiều tài sản thế chấp tọa lạc tại các huyện, tỉnh khác nhau, theo quy định của pháp luật về thi hành án thì không được phát mại đồng thời các tài sản mà phải thực hiện cuốn chiếu từng tài sản theo từng địa bàn, dẫn tới thời gian thu hồi nợ kéo dài, không xử lý tổng thể, dứt điểm được toàn bộ tài sản bảo đảm tại cùng thời điểm, gây thiệt hại cho ngân hàng.

Theo TS.Cấn Văn Lực, kinh nghiệm quốc tế cho thấy hướng luật hóa, hoàn thiện khung pháp lý xử lý nợ xấu cũng rất được quan tâm bởi các nền kinh tế lớn. Trên thực tế, do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, nợ xấu của hệ thống tài chính cũng trở thành mối lo ngại lớn cho nhiều quốc gia trên thế giới. Mới đây nhất, để tạo tiền đề giải quyết nợ xấu, Liên minh châu Âu EU vừa thông qua chỉ thị (EU) 2021/2167 về đối tượng cung cấp dịch vụ tín dụng và đối tượng mua các khoản tín dụng (Directive (EU) 2021/2167 on credit servicers and credit purchasers), hay còn được gọi là chỉ thị nợ xấu (the Non-Performing Loans Directive), có hiệu lực từ ngày 28/12/2021. Chỉ thị này cùng với các hành động khác của các cơ quan có thẩm quyền châu Âu, sẽ cung cấp khung khổ pháp lý và các yêu cầu chung để góp phần tạo ra một thị trường thứ cấp thống nhất, thích hợp cho các tổ chức tín dụng xử lý nợ xấu trên bảng cân đối kế toán và giảm thiểu rủi ro tích lũy nợ xấu trong tương lai.
Đề xuất các nội dung cần thiết Luật hóa các quy định về xử lý nợ xấu, ông Nguyễn Quốc Hùng cho rằng, cần rà soát toàn diện các Luật khác có liên quan đến xử lý nợ xấu và xử lý tài sản bảo đảm khoản nợ xấu để phân tích, đánh giá những điểm chưa thống nhất, còn mâu thuẫn, đảm bảo hài hòa, kết nối với các quy định của pháp luật khác có liên quan. Đồng thời quy định rõ nguyên tắc ưu tiên áp dụng Luật về xử lý nợ xấu khi phát sinh những quy định khác nhau.
Ngoài ra, các cơ quan nhà nước có liên quan cần có trách nhiệm rà soát, hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật liên quan; đề xuất ban hành mới hoặc sửa đổi, bổ sung để đảm bảo sự liên thông, kết nối giữa các quy định pháp luật.
“Chúng tôi đề xuất cơ quan soạn thảo xây dựng theo hướng quy định cho phép các tổ chức tín dụng được lựa chọn áp dụng quy định của Luật Xử lý nợ xấu để xử lý các khoản nợ xấu phát sinh trước khi Luật về xử lý nợ xấu được thông qua, có hiệu lực” - ông Nguyễn Quốc Hùng nói.
Theo ông Nguyễn Quốc Hùng, Luật Xử lý nợ xấu phải xác định rõ vai trò các chủ thể tham gia vào quá trình xử lý nợ xấu, trong đó cần chi tiết, cụ thể hai nội dung là mua bán nợ xấu và chứng khoán hóa nợ xấu. Cần xây dựng hệ nguyên tắc cụ thể, xác định rõ nhóm đối tượng điều chỉnh luật để đảm bảo tính ổn định và lâu dài của luật.
Tiếp đó, Luật Xử lý nợ xấu cần quy định rõ về hiệu lực chứng cứ, không cần chứng minh của Hợp đồng bảo đảm đã được công chứng và/hoặc đăng ký biện pháp bảo đảm theo quy định của pháp luật; đồng thời quy định rõ về hiệu lực của các Hợp đồng bảo đảm được ký kết hiện trên cơ sở tài sản bảo đảm đã được Cơ quan quản lý nhà nước ghi nhận/chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng của Bên bảo đảm nhằm bảo vệ tổ chức tín dụng với tư cách là người thứ ba ngay tình khi tham gia thiết lập và đăng ký biện pháp bảo đảm.